Thứ Tư, 29 tháng 4, 2009

Sắc Không

Sắc không

LTS: Bài kệ này do Hoàng Thái hậu Ỷ Lan (? -1117) trước tác để ngộ giải những tham thấu của bà về Thiền đạo, đã được tuyển chọn để đưa vào tập thơ “Defiant Muse: Vietnamese Feminist Poems from Antiquity to the Present” (Nàng Thơ Phản Kháng: Thi ca Nữ quyền Việt Nam từ cổ đại cho tới đương thời) của nhà xuất bản Nữ quyền, trực thuộc Đại học Thành phố New York. Hai bản dịch đã được thực hiện, một do Đinh Từ Bích Thúy và Martha Collins, một do Xuân Oánh. Chúng tôi xin đăng tải lại ở đây để trình bày thêm một góc nhìn nghệ thuật về triết học Phật giáo bên cạnh góc nhìn đương đại.

Tương tự, bài thơ “Khúc hát hái sen” của Ngô Chi Lan (1434-?) cũng đã được chuyển dịch qua tiếng Anh trong cùng một trường hợp, và cũng được giới thiệu trên Tạp chí Da Màu bên cạnh bài kệ này, với hai bản dịch do Đinh Từ Bích Thúy - Martha Collins và Lady Borton thực hiện

 

kanjuro-shibata-xx-ensoSắc là không, không tức sắc,
Không là sắc, sắc tức không.
Sắc không đều chẳng quản,
Mới khế hợp chân tông.

  “Sắc không” - Kanjuro Shibata

 

FORM NOTHING

Form is nothing, nothing form
Nothing is form, form nothing
Not to think form nothing:
Harmony then with truth.

(tr. by Đinh Từ Bích Thúy và Martha Collins)

 

 BEING NON BEING
Being is non being, non being being.
Non being is being, being non being.
Pay no mind to being and non-being.
Only then is there unity of the whole.

(tr. by Xuân Oánh)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét