Thứ Ba, 4 tháng 1, 2011

Ngôn sứ (The Prophet) 1/4 Gibran Kahlil Gibran

-Ngôn sứ (The Prophet) 1/4

prophetcover
 Lời người dịch: Kahlil Gibran (1883-1931), thi sĩ và họa sĩ người gốc Li-băng, được xem như một trong các đạo sư vĩ đại của thế kỷ 20. Các tác phẩm của ông chứa đựng thông điệp cao cả, nhất quán và vượt thời gian về một thế giới đại đồng, tôn giáo hòa đồng, loài người huynh đệ và một tình yêu hằng cửu nối kết con người với nhau trong tình yêu Thượng đế, giữa một trần gian hiệp nhất với không gian.
Ngôn sứ (The Prophet), là tác phẩm chủ yếu và tuyệt vời nhất trong cả chục tác phẩm bằng tiếng Anh và tiếng A Rập của ông. Ngôn sứ được xuất bản lần đầu năm 1923, và cho đến nay, đã tái bản hàng trăm lần cùng dịch ra trên bốn chục thứ tiếng. Chỉ riêng với tác phẩm này, Kahlil Gibran được giới xuất bản đánh giá là một trong các tác giả được đọc rộng rãi nhất, có lẽ chỉ sau Shakespeare và Lão Tử.

Ngôn sứ gồm 26 đáp từ bằng lối nói đầy chất thơ chuyên chở những cái nhìn thấu suốt, ứng xử với các chủ đề lớn của cuộc đời trên nền tảng chân thiện mỹ, như hạnh phúc và đau khổ, tình yêu và cái chết, lao động và của cải, hôn nhân và con cái, tình bằng hữu và luật pháp, thiện ác và tôn giáo, ăn mặc và cầu nguyện, v.v.
Tác phẩm này cũng đã được ít nhất năm người dịch sang tiếng Việt, trong đó có Phạm Bích Thủy, Trùng Dương, Giải Nghiêm, Châu Diên, v.v. với nhan đề thường xoay quanh chữ "tiên tri". Trong bản dịch này, tôi dùng chữ "ngôn sứ".
Ngôn sứ (prophet), được hiểu như một sứ giả chuyển giao một thông điệp bằng ngôn từ. Ngôn sứ có mặt trong các tôn giáo lớn như Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Bái Hỏa giáo, Hi Lạp cổ đại, v.v. Ngôn sứ tự xem mình hoặc được xem như kẻ có giao tiếp với các hữu thể thiêng liêng hoặc siêu phàm, như Thượng đế hay thần linh. Thông điệp mà họ trung chuyển cho con người thường được gọi là sứ điệp hay lời tiên tri (prophecy), có lẽ vì thế nhiều người thường dịch chữ Prophet là Nhà tiên tri, theo ý nghĩa kẻ biết trước và nói lên con đường tất yếu trong tương lai nếu người đương thời nhất định đi theo chân lý hoặc vẫn không thể từ bỏ những đọa lạc hiện tại.
Hiểu một cách tích cực, ngôn sứ là kẻ cống hiến những cái nhìn thấu suốt cho thời đại, vừa là người quyết liệt phê phán hiện trạng, cất cao lời cảnh tỉnh người đương thời, nhắc lại các giá trị tinh thần bất biến, và vừa là kẻ sẵn sàng hiến thân để làm nhân chứng cho chân lý và bảo chứng cho sứ điệp.
Như thế, về mặt truyền thống, ngôn sứ không phải là kẻ đưa ra lời tiên đoán biến cố hoặc giải đáp cụ thể và tức thời các bí ẩn. Ngôn sứ là kẻ hiện đại hóa bằng ngôn từ nội hàm của chân lý muôn thuở, đưa lời cảnh báo cấp thiết, và được xem là người tích cực cổ vũ cho những đổi thay trong cá thể mỗi người và quần thể xã hội, mang tính tâm linh và cách mạng tận gốc, trong quá trình trở về với cội nguồn uyên nguyên của con người.
Hình ảnh Ngôn sứ Almustafa được thể hiện trong bản dịch này – mà chúng tôi cố làm cho gần gủi với hình ảnh vừa cách biệt vừa thân ái trong nguyên tác của Kahlil Gibran – là một con người bình thường tiềm ẩn trong mỗi chúng ta, được thăng hoa nhờ các trải nghiệm của một quá trình chiêm nghiệm trong cô đơn và thấu suốt, rồi phát biểu với chúng sinh bằng tất cả ý thức trách nhiệm, từ tốn và chân tình… Một hình ảnh thường được nghĩ tới như một chức năng hay một kỳ vọng của giới văn nghệ sĩ, triết gia, tăng lữ, nhà giáo dục, v.v., những trí thức chân chính nói chung và kẻ làm nghệ thuật nói riêng.



Con tàu đang tới

Almustafa, người được chọn và là người được yêu thương, kẻ là bình minh mỗi ngày của đời mình, đã từ mười hai năm nay tại thành Orphalese chờ đợi con tàu quay lại đón rước ông quay về hòn đảo nhỏ nơi ông chào đời.
Tới năm thứ mười hai, vào ngày mồng bảy tháng Ielool mùa thu hoạch, ông leo lên ngọn đồi bên ngoài thành. Đưa mắt nhìn về hướng biển, ông thấy giữa mù sương đang đi tới con tàu của mình.
Lúc ấy, tâm hồn Almustafa mở tung mọi cánh cổng, niềm vui soãi cánh tung bay ra khơi. Khép đôi mắt, ông cầu nguyện trong trùng trùng im lặng của linh hồn.
Thế nhưng khi bước xuống đồi, một cơn buồn chợt đến khiến Almustafa thầm nghĩ:
Làm sao mình ra đi với tâm hồn thanh thản chẳng chút đớn đau? Không những thế, làm sao mình rời thành này với tinh thần không một vết thương.
Bên trong vòng thành kia mình đã trải qua những ngày dài khổ sở cùng những đêm dài quạnh quẽ, và kẻ nào có thể từ chốn đau đớn và cô liêu của hắn ra đi không chút tiếc nuối?
Trên các đường phố kia mình đã tung vãi rất nhiều mảnh vụn của linh hồn, và trên những ngọn đồi này rất nhiều đứa con của khát vọng mình đang bước đi trần trụi khiến mình chẳng thể xa lìa tất cả mà lòng không khỏi cảm thấy buốt nhói và nặng trĩu.
Hôm nay, không phải mình cởi bỏ y phục nhưng đang tự lột da bằng chính bàn tay mình.
Không phải mình để lại đằng sau một ý nghĩ mà là một trái tim đã ngày càng dịu ngọt nhờ những cơn đói và những cơn khát.
Thế nhưng mình chẳng thể nấn ná lâu hơn.
Biển vốn gọi mọi vật quay về, đang cất tiếng gọi mình, và mình phải lên tàu.
Vì ở lại – cho dẫu thời giờ vẫn cháy bỏng trong đêm – là đông cứng và cô kết, là bị ràng buộc vào khuôn khổ.
Lòng mình rất muốn mang theo mọi thứ nơi đây, nhưng làm sao có thể?
Giọng nói không thể mang lưỡi đi theo và môi không thể cho nó đôi cánh. Nó phải tự một mình tìm kiếm thinh không.
Và chim đại bàng tự một mình, không tổ ấm, mới bay ngang vầng mặt trời.
Lúc này, khi xuống tới chân đồi, Almustafa lại hướng mình ra biển và thấy con tàu đến đón đang tiến vào cảng cùng các thủy thủ đồng hương trên mũi tàu.
Linh hồn ông cất tiếng gọi họ, và ông nói:
Hỡi các con trai của bà mẹ cổ đại, hỡi những kẻ cưỡi lên sóng biển,
Đã bao nhiêu lần các bạn dong buồm trong giấc chiêm bao của tôi. Và giờ đây các bạn đến khi tôi đang tỉnh thức, cái vốn là một giấc mộng thẳm sâu hơn.
Tôi sẵn sàng ra đi, lòng tôi nôn nao theo những cánh buồm trương sẵn chờ cơn gió đến.
Tôi sẽ chỉ còn thở thêm một hơi thở nữa thôi trong không khí tỉnh lặng này, và tôi cũng sẽ chỉ còn một ngoái mắt nhìn lui đầy yêu thương nữa thôi.
Rồi tôi sẽ đứng giữa các bạn, làm một người đi biển trong muôn vàn người đi biển.
Và ngươi, hỡi đại dương bao la, bà mẹ đang ngủ yên,
Chỉ một mình ngươi là yên lành và tự do cho sông cùng suối.
Chỉ một khúc quanh suối lượn nữa thôi, chỉ một tiếng thì thầm trong trảng cỏ nữa thôi,
Rồi lúc ấy ta sẽ đến với ngươi, làm một giọt nước vô biên hoà vào đại dương vô tận.
Và trong khi bước đi Almustafa thấy từ đằng xa, đàn ông cùng đàn bà rời ruộng nương rời vườn nho, kéo nhau tuôn về cổng thành.
Ông nghe tiếng họ gọi lớn tên ông cùng thét bảo nhau từ cánh đồng này sang cánh đồng nọ rằng con tàu của ông đang tới.
Và ông tự nhủ:
Có phải ngày chia tay là ngày sum họp?
Có nên nói rằng buổi tối hôm trước của tôi mới thật là rạng sáng hôm sau của tôi?
Và tôi sẽ trao gì cho kẻ vừa buông tay cày giữa luống cày kia, hay kẻ vừa ngừng tay quay máy ép rượu kia?
Không biết tâm hồn tôi có trở thành cây trĩu quả để hái đem tặng họ?
Và không biết các khát vọng của tôi có tuôn trào như nguồn nước để có thể rót đầy ly của họ?
Tôi có là cây đàn để bàn tay của Đấng toàn năng có thể chạm tới, hoặc ống sáo để làn hơi của Ngài có thể thổi qua?
Tôi có là hành giả của lớp lớp thinh lặng, và trong cõi đó tôi đã tìm thấy kho báu nào để có thể với lòng tự tin đem phân chia cho mọi người?
Nếu đây là ngày gặt hái của tôi, trong cánh đồng nào tôi đã gieo hạt và vào những mùa không nhớ nổi nào?
Nếu đây quả thật là giờ tôi đưa cao chiếc đèn lồng của mình thì bên trong không đang đốt ngọn lửa của tôi.
Tôi sẽ nâng lên chiếc đèn lồng ấy, khô cạn và tối tăm.
Và người canh đêm sẽ rót đầy dầu cùng thắp sáng nó.
Almustafa nói những lời ấy thành tiếng. Nhưng trong lòng ông vẫn còn rất nhiều điều không nói. Vì bản thân ông không thể nói lên bí mật thăm thẳm của mình.
Khi ông vào thành, toàn thể dân chúng đến gặp ông, và họ chung một lượt cất tiếng gọi ông
Các trưởng lão trong thành cùng nhau đứng lên và nói:
Xin chớ vội lìa xa chúng tôi.
Thầy là ban trưa trong trời chiều sắp tà của chúng tôi, và tuổi thanh xuân của thầy cho chúng tôi những giấc mơ để mộng.
Ở giữa chúng tôi thầy không là người lạ cũng chẳng phải khách, mà là con trai và người rất yêu thương của chúng tôi.
Đừng khiến cho đôi mắt chúng tôi sẽ phải khổ sở vì đói khát khuôn mặt thầy.
Các nam tư tế cùng nữ tư tế thưa với ông:
Lúc này, xin đừng để cho sóng biển chia cách chúng ta, và xin đừng để những năm tháng thầy trải qua giữa chúng tôi trở thành ký ức.
Thầy đi giữa chúng tôi như một thần linh, chiếc bóng của thầy là ánh sáng trên khuôn mặt chúng tôi.
Chúng tôi quá đỗi yêu thương thầy nhưng tình yêu ấy chẳng nói ra lời và bị khuất sau những chiếc mạng.
Và giờ đây nó cất tiếng gọi thầy và nó đứng trước mặt thầy, không chút giấu che.
Và phải chăng tới giờ ly biệt tình yêu mới biết hết các chiều sâu của nó.
Và những người khác cũng đến khẩn nài Almustafa. Nhưng ông không trả lời họ. Ông chỉ gục đầu; và những kẻ đứng gần thấy nước mắt tuôn chảy ướt đẫm ngực ông.
Rồi ông cùng dân chúng đi tới quảng trường lớn trước Đền thờ.
Và từ nơi linh địa ấy bước ra một người nữ tên là Almitra. Và bà là một nhà thấu thị.
Ông nhìn bà với ánh mắt rất đỗi dịu dàng vì bà chính là người đầu tiên nhận ra và tin vào ông khi ông vừa đến thành này chỉ mới một ngày.
Và bà cất tiếng chào ông rằng:
Hỡi Ngôn sứ của Thượng đế, trong cuộc truy tầm cái vô cùng, thầy đã từ lâu tìm kiếm con tàu của mình ở những chốn xa xăm.
Và giờ đây con tàu của thầy đang đến, và thầy nhất thiết phải đi.
Thăm thẳm thay lòng thầy khát khao miền đất muôn trùng ký ức và chốn cư ngụ những khát vọng vô cùng cao cả của thầy; và tình yêu của chúng tôi sẽ không ràng buộc thầy cũng như những thiếu thốn của chúng tôi sẽ không níu bước chân thầy.
Tuy thế, chúng tôi yêu cầu trước khi rời xa xin thầy hãy nói và trao cho chúng tôi chân lý của thầy.
Và chúng tôi sẽ trao nó cho con cái của mình, rồi chúng sẽ trao nó cho con cái của chúng, và chân lý ấy không bao giờ mai một.
Vậy giờ đây, xin thầy bộc lộ bản thân cho chúng tôi và nói cho chúng tôi mọi điều được vén lộ cho thầy về những gì giữa cõi tử sinh.
Và ông trả lời:
Hỡi dân thành Orphalese, tôi có thể nói điều gì đây ngoài những điều lúc này đang chuyển động trong linh hồn các bạn?

Về Tình yêu

Lúc ấy, Almitra thưa, Hãy nói cho chúng tôi về Tình yêu.
Và ông ngước mặt lên nhìn dân chúng, im lặng bao phủ mọi người. Với giọng cao cả ông nói:
Khi tình yêu vẫy gọi các bạn, hãy đi theo nó,
Dù lối nó đi trắc trở gập ghềnh
Khi đôi cánh tình yêu cuốn lấy các bạn, hãy qui thuận nó,
Dù trong lông cánh ấy giấu thanh gươm có thể làm các bạn bị thương.
Và khi tình yêu nói với các bạn, hãy tin vào nó,
Dù giọng nói của tình yêu có thể làm tan tác các giấc mộng như gió bấc tàn phá khu vườn.
Vì cho dẫu được tình yêu tấn phong lên ngai cao, nó sẽ đóng đinh các bạn trên thập giá. Cho dẫu được tình yêu làm cho lớn lên, nó sẽ khiến các bạn bị tỉa lá xén cành.
Cho dẫu tình yêu leo lên chót vót ngọn cây của các bạn và mơn trớn lá cành rung rinh trong nắng,
Nó sẽ tuột xuống tận gốc, lay động mọi rễ cái rễ con đang níu chặt lòng đất.
Tình yêu gom các bạn vào lòng như những bó lúa,
Và đập cho các bạn tróc vảy.
Tình yêu sàng sảy cho các bạn ra khỏi vỏ trấu.
Tình yêu xay xát cho các bạn sạch bóng.
Tình yêu nhào nặn cho các bạn mềm dẻo;
Và rồi tình yêu trao phó các bạn cho ngọn lửa thiêng của nó để các bạn có thể thành bánh thánh trong bữa tiệc thiêng liêng của Thượng đế.
Tình yêu sẽ làm mọi điều ấy để các bạn có thể thấu hiểu bí mật của trái tim mình, và trong thấu hiểu đó, được trở thành một mảnh trái tim của Thượng đế.
Nhưng nếu trong sợ hãi các bạn chỉ tìm kiếm yên bình hay lạc thú của tình yêu,
Lúc đó, nên che lên sự trần trụi của mình và bước ra khỏi sân đập lúa của tình yêu,
Rồi vào một thế giới không mùa, nơi các bạn sẽ cười nhưng không trọn tiếng cười và khóc nhưng không trọn nước mắt.
Tình yêu chẳng cho gì ngoài chính nó và chỉ lấy những thứ từ bản thân nó.
Tình yêu không chiếm hữu cũng chẳng bị chiếm hữu.
Vì tình yêu là đủ cho tình yêu.
Khi yêu các bạn chớ nói, ‘Thượng đế đang ở trong lòng tôi,’ nhưng hãy nói, ‘Tôi đang ở trong lòng Thượng đế.’
Và chớ tưởng rằng các bạn có thể định hướng dòng chảy của tình yêu, vì nếu tình yêu thấy các bạn xứng đáng, nó sẽ điều khiển diễn tiến của các bạn.
Tình yêu chẳng có khát vọng nào ngoài khát vọng tự viên thành nó. Nhưng nếu các bạn đang yêu và nhất thiết phải có khát vọng, nên khát vọng các điều này:
Được tan chảy và như con suối chảy đang hát lên giai điệu của mình cho đêm.
Được biết đau khổ của sự quá đỗi dịu êm.
Được bị thương bởi sự thấu hiểu của mình về tình yêu;
Và được nhỏ máu trong tự nguyện và hân hoan.
Được thức dậy lúc rạng sáng với con tim chắp cánh, đưa lời cám ơn vì có thêm một ngày yêu đương nữa.
Được nghỉ ngơi ban trưa và chiêm ngắm cơn ngất ngây tình yêu;
Được về nhà lúc chiều hôm với lòng thâm tạ;
Và được ngủ với lời cầu nguyện trong lòng cho người yêu dấu cùng khúc tụng ca trên môi.

Về Hôn nhân

Lúc ấy Almitra lại cất tiếng nói, Và thưa thầy, Hôn nhân là gì?
Và ông trả lời rằng:
Các bạn được sinh ra cùng nhau và sẽ ở cùng nhau mãi mãi.
Các bạn sẽ ở cùng nhau khi đôi cánh trắng của thần chết quạt tan tác ngày đời của mình.
Đúng thế, các bạn sẽ ở cùng nhau cả trong ký ức im lặng của Thượng đế.
Nhưng hãy để trong nơi các bạn đang ở cùng nhau có các khoảng cách.
Và hãy để gió các tầng trời nhảy múa giữa các bạn.
Hãy yêu nhau nhưng đừng biến tình yêu thành dây ràng buộc;
Mà tình yêu nên là đại dương chuyển động giữa đôi bờ của hai linh hồn.
Hãy rót đầy ly nhau nhưng đừng uống chung ly.
Hãy cho nhau bánh nhưng đừng ăn chung chiếc bánh.
Hãy cùng nhau mừng vui ca múa nhưng nên để mỗi kẻ một mình,
Như dây đàn đứng riêng dù rung chung điệu nhạc.
Hãy cho nhau trái tim nhưng đừng giao nhau cất giữ.
Vì chỉ bàn tay của Cuộc đời mới có thể chứa đựng trái tim các bạn.
Và hãy đứng cùng nhau nhưng đừng quá sát vào nhau:
Vì các cột đền thờ đều đứng một mình,
Và cây sồi với cây hạnh đào không lớn lên trong chiếc bóng của nhau.

Về Con cái

Và ôm trong lòng mình hài nhi một phụ nữ thưa, Hãy nói với chúng tôi về Con cái.
Và ông nói:
Con cái của các bạn không là con cái của các bạn.
Chúng là con trai và con gái của Cuộc đời trong nỗi khát khao cho chính nó.
Chúng đến qua ngả các bạn nhưng không xuất phát từ các bạn,
Và chúng dù ở với các bạn nhưng không thuộc về các bạn.
Các bạn có thể cho chúng tình yêu nhưng không thể cho ý nghĩ của mình.
Vì chúng có ý nghĩ của riêng chúng.
Các bạn có thể cung cấp nơi ở cho thể xác nhưng không thể cho chúng linh hồn.
Vì linh hồn chúng ở trong ngôi nhà của ngày mai, nơi các bạn chẳng thể ghé thăm dù trong giấc mộng.
Các bạn có thể ra sức để giống như chúng nhưng đừng tìm cách làm cho chúng giống như mình.
Vì cuộc đời không đi lùi cũng chẳng lần lữa với hôm qua.
Các bạn là cây cung từ đó con cái là mũi tên sống động được bắn ra.
Cung thủ ấy thấy tiêu điểm trên lối đi tới vô cùng, với sức mạnh của Ngài, kéo cong các bạn để mũi tên của Ngài có thể đi nhanh và đi xa.
Hãy hân hạnh uốn cong mình trong bàn tay Cung thủ.
Vì dù yêu mũi tên đang bay Ngài yêu cả cây cung vững chắc.

Về Cho

Lúc ấy, một người giàu thưa, Hãy nói cho chúng tôi về Cho.
Và ông trả lời:
Các bạn cho rất ít khi chỉ cho những vật mình sở hữu.
Chính khi cho đi bản thân các bạn mới thật sự cho.
Vì những vật sở hữu là gì ngoài những cái các bạn đang canh giữ bởi sợ ngày mai có thể cần tới chúng.
Và ngày mai, cái gì ngày mai sẽ mang lại cho con chó quá thận trọng đang vùi xương dưới cát không dấu vết khi nó đi theo người hành hương tới thành thánh?
Và sợ túng thiếu là gì nếu không phải chính là sự túng thiếu.
Há chẳng phải sợ khát khi giếng của mình đầy nước thì cơn khát không thể nào nguôi?
Có những kẻ cho rất ít trong rất nhiều cái họ có – họ cho để được công nhận – và lòng ham muốn thầm kín ấy biến cái họ cho thành của độc.
Và có những kẻ có rất ít nhưng đem cho tất cả.
Những kẻ ấy là người tin vào cuộc đời, vào sự dư dật của cuộc đời và rương của họ không bao giờ rỗng.
Có những kẻ cho với lòng hoan hỉ, và niềm vui ấy là phần thưởng của họ.
Và có những kẻ cho với lòng đau đớn, và nỗi đau ấy là lễ thanh tẩy của họ.
Và có những kẻ khi cho lòng không cảm thấy đau đớn hoặc không tìm kiếm hoan hỉ, cũng không cho với sự lưu tâm tới công quả;
Họ cho như cây hoa mia tỏa hương vào không gian trong thung lũng đằng xa.
Qua bàn tay họ Thượng đế lên tiếng, và từ đằng sau đôi mắt họ Thượng đế mỉm cười nơi trần thế.
Thật tốt lành khi cho lúc được hỏi tới nhưng nên cho lúc không được yêu cầu, cho qua lòng hiểu biết.
Và với kẻ mở rộng bàn tay, việc kiếm người nhận là niềm vui lớn lao hơn việc cho.
Liệu có cái gì các bạn nên giữ lại?
Tới một ngày nào đó mọi cái các bạn đang có sẽ bị cho đi;
Vậy hãy cho ngay lúc này để mùa cho có thể là của mình chứ không của kẻ thừa kế chúng.
Các bạn thường nói, ‘Tôi sẽ cho nhưng chỉ cho người xứng đáng.’
Trong vườn ăn quả của các bạn, cây cối không nói như thế, và cũng không nói như thế đàn súc vật trên đồng cỏ.
Chúng cho để sống vì giữ lại là sắp diệt vong.
Chắc chắn kẻ xứng đáng nhận ngày ngày và đêm đêm của hắn thì xứng đáng với mọi thứ khác đến từ bạn.
Và kẻ xứng đáng uống nước biển lớn cuộc đời thì xứng đáng được rót đầy ly từ con suối nhỏ nhoi của các bạn.
Và có xứng đáng nào cao cả hơn cái ở trong lòng can đảm và tự tin – hơn cả lòng từ thiện – của việc nhận?
Và các bạn là ai mà loài người nên phanh lồng ngực ra, lột chiếc mạng kiêu hãnh, để các bạn có thể thấy giá trị của họ bị phơi trần và lòng tự hào của họ không bị nao núng?
Trước tiên các bạn hãy thấy rằng bản thân mình xứng đáng là người cho và là khí cụ của việc cho.
Vì thật ra chính cuộc đời cho cuộc đời – trong khi các bạn, kẻ xem mình là người cho, chỉ là người chứng.
Và các bạn những người nhận – và tất cả đều là người nhận – đừng gánh lấy sức nặng biết ơn để khỏi đặt chiếc ách lên mình và lên người cho,
Mà hãy cùng với người cho vươn lên trên các tặng phẩm của họ như trên đôi cánh;
Vì quá băn khoăn về món nợ ấy của mình tức là ngờ vực sự quảng đại của kẻ có đất bao dung làm mẹ và Thượng đế làm cha.

[còn tiếp]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét