I. Khái niệm
“Đa” là nhiều: đa sự, đa nguyên, đa đảng, đa tình, đa dạng, đa tầng, đa đa…
“Đề” bao gồm đủ mọi thứ liên quan đến “Đề”: đề tài; đề bài, đề nghị, đề án, vấn đề, đề bạt, đề huề…
Thơ Đa Đề tương tác giữa chúng ta (người viết và người đọc) với thời thế đa dạng, với kỹ thuật truyền thông hiện đại để nghệ thuật thơ tác động vào đời sống tích cực hơn.
II. Kỹ thuật
1. Thí dụ một đoạn trong bài: “Tuổi hai mươi __ yêu ~ – ___ dấu ______” sau:
2. Phân tích:
Chúng ta giả sử người sáng tác ở đây chỉ có máy tính và phương tiện là thảo trình Word. Nếu trình độ và phương tiện (các thảo trình multimedia, hypertext) của bạn chuyên nghiệp hơn thì cách thức trình bày kiểu thơ Đa Đề này sẽ đa dạng và hiệu quả hơn những thí dụ trong bài này nhiều.
a. Mô hình cấu trúc:
b. Các ký hiệu:
~ : Phạm trù nghệ thuật (sáng tạo, tương tác, bộc phát, trực giác, tư tưởng…)
- : Phạm trù cảm tính (nghĩa bóng, ám chỉ, trừu tượng, liên tưởng, gián tiếp, biểu diễn …)
_ : Phạm trù lý lẽ (nghĩa đen, lịch sử, thực tế, cụ thể, trực tiếp, hành động…)
Các ký hiệu này càng được lặp lại (ở đây là độ dài) sẽ càng tăng tính nhấn mạnh. Thí dụ khi viết “Muah! Muah ! _____ Cưng ___ Em!” thì chúng ta hiểu có hành động hôn tạo tiếng Muah! Và “Muah – ~ —– Anh!” thì chỉ có tiếng hôn bằng lời, bằng cử chỉ (không chạm thân thể) như chào thôi. “KamaSutra! ______ ______” diễn tả hai đợt hành động. Ngoài các ý nghĩa trên, chúng còn mang ý nghĩa trình bày hay minh họa cho văn bản.
Các ký hiệu này, một phần sẽ giúp quá trình sáng tác được nén đọng, gọn, nhanh, và nghệ thuật (những thứ không thể diễn tả trọn vẹn bằng ngôn từ) hơn. Phần khác nó cho phép văn bản mở ra nhiều chiều (đề tài, dữ kiện, văn bản, hình ảnh, âm thanh, địa lý, tư duy…) hơn trong quá trình tương tác với các phần phụ bản.
c. Các phụ bản (PB):
Phụ bản ở đây vượt qua dạng phụ chú, ghi chú, giải thích… Nó là dạng tạo tương tác giữa văn bản chính với người sáng tác và người đọc. Nó đóng vai trò mở nghĩa cho các ký hiệu ở văn bản chính. Ở trong bài thí dụ trên, nó sửa sai câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” của ông Hồ. Nó chỉ ra sự tráo trở của chính sách “Đổi Mới” mà vẫn giữ khư khư cái cũ hoặc “đổi mới” là càng ngày càng tăng hủ tục cũ v.v… Tính đương nhiên và phần quan trọng nhất của các phụ bản này là chúng gợi luồng sáng tác cho tác giả, tạo ra bố cục mới lạ (sáng tác uyển chuyển theo gợi hứng của phụ bản) và cho người đọc sự cảm nhận đa chiều-~nhiều dạng từ đó làm óc não giao động để phát sinh hiện tượng tái tạo hoặc sáng tạo.
Về nội dung, các dạng phụ bản có thể mang tính thời sự, lịch sử, nghệ thuật, tranh, ảnh, âm thanh, tác giả, văn kiện, địa chỉ internet, những dạng thông tin về những gì đã, đang hoặc sẽ xảy ra trong mọi lãnh vực v.v…
Về hình thức, cách xếp đặt các phụ bản so với văn bản có thể ở ngoài, trong, kề, song song, ngang, chéo dọc, nổi, chìm, mờ, màu, lấp lánh… tóm lại là mọi hình dạng thông tin cho phép của văn bản.
3. Ý nghĩa:
Lợi ích của thơ Đa Đề là nó tạo ra sự tương tác giữa tác giả, người đọc và văn bản để từ đó có thể sinh ra những hiểu biết mới, ngôn từ mới, ý nghĩ mới, tư duy mới, sáng tác mới để dẫn đến hành động tạo sự thay đổi trong đời sống. Ở bài mẫu trên, từ một vài dòng về tình yêu ở dạng non trẻ, ngôn từ sến sến ở văn bản chính, nhờ những phụ bản, bài này sẽ mở ra những ý nghĩa lịch sử, những khám phá đúng sai, những trình độ và tư cách của những người có quyền hành, có hiểu biết mà không dám lên tiếng trước sai trái căn bản của xã hội. Thí dụ như các em mẫu giáo khi học 5 điều ông Hồ dạy, muốn nhớ thì phải sửa sai thành 10 điều (giống 10 điều răn của đạo Chúa) thì mới dễ nhớ để trả bài.
Riêng về nghệ thuật, thơ Đa Đề sẽ tạo môi trường (nhờ các phụ bản) cho người sáng tác tiếp xúc với thực tế và hiểu biết thêm nhiều lãnh vực để hòa giải và vượt trên mọi tranh cãi liên quan đến các quan niệm và tư cách sáng tác, thí dụ như thơ vì nhân sinh hay nghệ thuật?; Bố cục trong sáng tác ra sao?; Thơ có khác Văn, khác nhạc kịch không?, Có cần chỉ đạo trong sáng tác hay không? v.v…
III. Kết luận
Ai cũng muốn đổi mới thơ. Từ phương tiện truyền miệng đến multimedia hiện nay, thơ đã đi từ ngôn đến chữ, đến chia khổ, đến ngắt dòng… Hôm nay chúng ta thử dạng Đa Đề này để cập nhật thơ với những phương tiện truyền thông hiện đại. Các ký hiệu diễn tả hành động ( __ ), suy tưởng (- – - ) và tư tưởng ( ~ ) cùng các cấu trúc phụ bản sẽ là những yếu tố mới cho chúng ta sáng tác và khai triển thơ. Với dạng này, thơ sẽ có lại vị trí riêng biệt (không còn lẫn với các dạng nghệ thuật khác) để người sáng tác nắm rõ và lại có hứng tiếp.
Đây chỉ là những hàng gợi ý về lợi ích của thơ Đa Đề và bài thí dụ trên chưa kiện toàn (khuôn khổ trang của trang web không cho phép trình bày khoảng cách đong đưa và càng xuống dưới bài, nhân vật đàn ông càng lấn sang bên trái và nhân vật nữ càng lùi xa dần qua bên phải) và chưa kết thúc. Nếu bạn còn có hứng với thơ, xin thử nghiệm và phê bình.
Lý thuyết về văn bản, các bạn có thể đọc thêm tại: http://vanhocnghethuat.org/vhnt/541/vhnt541-bienkhaoKM.htm
© 2009 Khải Minh
© 2009 talawas blog
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét