Thứ Năm, 10 tháng 9, 2009

Ký sự cầu Long Biên

Ký sự cầu Long Biên

TT - Với người Hà Nội, Long Biên không chỉ là cây cầu sắt huyết mạch đầu tiên nối đôi bờ sông Hồng, mà còn là một phần lịch sử không thể tách rời của thủ đô trong suốt thế kỷ 20 đầy biến động bi hùng. 111 năm đã trôi qua, kể từ ngày đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng, cầu Long Biên đang giữ trong mình biết bao bí ẩn.

Kỳ 1:

Công trình lịch sử

Ông già ngừng tay cuốc, ôn lại ký ức truyền lưu. Tôi đã bất ngờ gợi lại câu chuyện cha ông cụ đã đổ mồ hôi và xương máu để xây dựng cầu Long Biên. Cây cầu từng một thời là công trình kỳ vĩ nhất Hà Nội bắc qua sông Hồng.

Cầu Long Biên đầu thế kỷ 20 - Ảnh tư liệu

Ý tưởng vĩ đại

"Nó là một kiệt tác của các kiến trúc sư, đốc công, chỉ huy trưởng người Pháp và những người thợ Việt. Chính các công nhân này đã xây dựng nên toàn bộ cầu"

Toàn quyền Paul Doumer

“Đó là ông nội tôi, người đã làm phu xây dựng cầu Long Biên hồi cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Thuở ấy cha tôi cũng chưa ra đời. Mãi sau này tôi mới được nghe chuyện từ chính ông nội tôi kể lại” - ông Nguyễn Văn Thụy, một nông dân trên 70 tuổi ở bãi giữa sông Hồng dưới chân cầu Long Biên, bồi hồi tâm sự lại chuyện xưa.

Ông kể thuở mình còn nhỏ, ông cháu hay trải chiếu trên bãi sông ngắm cầu Long Biên vào những đêm trăng sáng. Những lúc ấy, ông nội thường kể chuyện cho ông nghe rằng hàng ngàn người phu Việt đã được trưng dụng để kéo gỗ, đào giếng móng, xây trụ cây cầu này. Đó là công việc mà ông nội ông cũng như rất nhiều người phu Việt khác chưa từng trải qua. Và nhiều người đã bỏ mình dưới lòng sông này.

Tôi lang thang đôi bờ sông Hồng để tìm lại các câu chuyện xưa. Những người trực tiếp đổ mồ hôi làm cầu đều đã khuất bóng từ lâu. Đa số chỉ còn lại lớp hậu duệ đời thứ ba và thứ tư mà ít nhiều chỉ biết chuyện xưa qua ký ức từ tổ tiên. Họ kể lời cha ông rằng đó là công trình lớn nhất xứ Bắc kỳ lúc bấy giờ, không chỉ người Hà Nội mà cả dân các tỉnh đồng bằng cũng được trưng dụng để làm cầu. Khi cây cầu hiện hình và được lưu thông, nó đã đem lại tiện ích hơn cả sự suy nghĩ của những người đã làm nên nó.

Sự thật lịch sử cũng được chính ông Paul Doumer - toàn quyền Đông Dương thời đó - khẳng định trong tác phẩm L’Indo- Chine Francaise (Souvenirs), rằng động cơ làm cầu Long Biên bắt nguồn từ thực tế thành phố bị chia cách bởi dòng sông quá rộng, việc qua lại của dân cư rất khó khăn, đắt đỏ, thậm chí nguy hiểm. Ngoài ra, trong thời đó tuyến đường sắt Lạng Sơn bắt đầu được xây dựng nhưng phải dừng lại ở bên kia thành phố, cách xa bờ sông. Ý tưởng của Paul Doumer là khi có cây cầu này, toàn bộ tuyến đường sắt sẽ quy tụ tại Hà Nội, một phần nối liền Hà Nội với biển, phần khác nối An Nam với Trung Quốc. Ông ta đã viết: “Không thể nào tưởng tượng nổi hai nửa của tuyến đường sắt lại bị chia cắt bởi con sông”.

Năm 1897, công trình được đấu thầu. Các nhà thầu xây dựng chính của Pháp có mặt. Cuối cùng, dự án của nhà thầu Daydé & Pillé tại Creil (Oise) được chọn. Ngày 13-9-1898, viên đá đầu tiên đã được đặt xuống sông Hồng để khởi công cây cầu kỷ lục của VN này. Paul Doumer đã thốt lên: “Đây là một trong những cây cầu lớn nhất của thế giới và là một công việc lớn, độc đáo nhất có thể thực hiện được ở vùng Viễn Đông. Nó đáng để thu hút sự quan tâm của toàn thế giới...”. Chỉ riêng phần cầu chính nối hai bờ đã dài 1.680m, gồm 19 nhịp dầm thép, 20 trụ cầu và mố cầu được xây dựng trên nền đất cứng ở độ sâu 30m tính từ mực nước thấp nhất sông Hồng. Ngoài ra, cầu còn được nối dài bởi cầu cạn và đường dẫn nhà ga ở hai bên bờ. Tổng chi phí công trình tốn khoảng 6.200.000 franc.

Dấu ấn Việt

Trong sách của mình, ông Paul Doumer kể khi đặt viên đá khởi công nhiều quan chức Pháp lẫn Việt tham dự, trong đó có thống soái Bichot, đô đốc Beaumont. Nhưng nhiều người vẫn hoài nghi hiện thực. Nhìn vị trí các trụ cầu được đánh dấu bằng cờ, có người mỉa mai: “Định đặt chỉ một sợi dây cáp từ bờ này sang bờ kia để hướng dẫn tàu thuyền sao?”. Nhưng công việc xây cầu đã được khởi động.

111 năm sau, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc ngồi tâm sự với tôi trong một sáng thu Hà Nội. Không biết rõ tổ tiên mình có tham gia làm cầu này không, nhưng ông có nhiều kỷ niệm và biết nhiều chuyện người Việt làm cầu này. Thời Mỹ đánh bom Hà Nội, ông phải đi sơ tán mỗi tháng tám lần qua lại cầu. Sự gắn bó đó đã khiến ông tìm hiểu, biết được rất nhiều người Việt đã bỏ mạng để xây cầu. Và công việc nguy hiểm chết người nhiều nhất chính là đào móng trụ cầu.

Chính ông Paul Doumer cũng kể công nhân Việt được đưa vào những lồng sắt thả xuống lòng sông để đào móng sâu dần xuống đất. Nó cứ dần xuống sâu và áp lực nước lên nó cũng tăng khủng khiếp. Từ đáy sông xuống sâu 25m, 30m, thậm chí 33m... Thợ làm việc liên tục bốn giờ bằng không khí nén trong lồng mới được thay ca khác.

Viên toàn quyền Đông Dương đã thốt lên: “Người An Nam bé nhỏ kiên cường dưới độ sâu này không một lời kêu ca, phản đối”. Thực tế nhiều người đã chết khi lồng sắt gặp trục trặc trong lòng đất sâu dưới đáy sông. Nhưng người này chết, người khác lại phải thay vào. Vì vậy, từ thuở đó đã có bài vè truyền miệng rằng: Cầu sắt mà bắc qua sông. Người chết như rạ vẫn phải len mình vào...

Ngay sau khi làm trụ cầu xong, người ta lắp ráp những dầm sắt được đưa đến từ nước Pháp. Paul Doumer kể ban đầu một số người Trung Quốc được tuyển dụng làm thợ đinh tán nối các thanh dầm sắt với nhau vì họ khỏe hơn người Việt. Nhưng rồi người Việt đã thay thế dần vì họ chăm chỉ, khéo léo hơn. Và các kỹ sư Pháp cũng thích dùng thợ Việt hơn.

Tuy nhiên, dấu ấn Việt trên cầu Long Biên không chỉ là mồ hôi và tính mạng người thợ mà có cả trình độ, đầu óc lớn. Doanh nhân nổi tiếng Bạch Thái Bưởi từng làm quản lý một phần việc xây dựng cầu, rồi thầu gỗ tà vẹt cho đường ray xe lửa trên cầu. Ông tổ chức người Phú Thọ, Yên Bái, Thanh Hóa khai thác gỗ tốt về bán cho Pháp, trong khi thép từ Pháp, ximăng Hải Phòng, vôi Long Thọ của Huế ...

Ngày 25-2-1902 cầu Long Biên được khánh thành (lúc đó đặt tên Doumer). Paul Doumer thốt lên: “Đó là một kiệt tác của các kiến trúc sư, đốc công, chỉ huy trưởng người Pháp và những người thợ Việt. Chính các công nhân này đã xây dựng nên toàn bộ cầu”.

QUỐC VIỆT

___________________

Trong chiến tranh, bảo vệ cầu Long Biên là bảo vệ một phần không thể tách rời của thủ đô Hà Nội. Và nhiều trận chiến bi hùng bên cây cầu này vẫn chưa chìm vào quên lãng.

Kỳ tới: Trong bão lửa

Thứ Bảy, 12/09/2009, 00:01 (GMT+7)

Ký sự cầu Long Biên - Kỳ 2: Trong bão lửa

TT - Rảo bước qua cầu Long Biên, tôi đi tìm những chiến binh đã kiên cường đối mặt với không quân Mỹ để bảo vệ cây cầu huyết mạch qua sông Hồng của thủ đô Hà Nội thời chiến tranh. Nhiều người ngày ấy vẫn còn nhớ mãi những năm tháng sống chết cùng cây cầu.

Trong khi máy bay Mỹ nhắm cầu Long Biên là trọng điểm phải hủy diệt thì những người lính phòng không Hà Nội lại quyết tâm bảo vệ cầu bằng mọi giá, kể cả bằng chính máu của mình.

Trận địa phòng không chuẩn bị bảo vệ cầu Long Biên thời chiến tranh - Ảnh tư liệu

>> Kỳ 1: Công trình lịch sử

Thương tích

Đó là một chiều tháng 8-1967, khi người dân Hà Nội đang tấp nập qua lại cầu Long Biên thì các tốp máy bay Mỹ bất ngờ ập đến đánh phá. Các trận địa phòng không bảo vệ kiên cường bắn trả nhưng các nhịp cầu 14, 15, 16 đã trúng bom và có nhịp bị đổ hoàn toàn. Các phần thi thể bắn tung tóe trên mặt cầu chưa bị sập. Có xác người còn bị hất tung xuống lòng sông đang chảy xiết giữa mùa mưa lũ.

Đến bây giờ, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc vẫn không thể nguôi kỷ niệm chiến tranh đau buồn này: “Trong các nạn nhân là dân thường chết vì bom trên cầu Long Biên có một học trò giỏi của tôi”. Ông rưng rưng kể thêm cô học trò tên Hồng Thúy, đang học lớp 10 thì phải đi sơ tán. Buổi chiều hôm ấy cô đạp xe hơn 20km về thăm nhà ở Hà Nội, nhưng mới đến gần giữa cầu Long Biên thì máy bay Mỹ ập đến trút bom. Gia đình chờ mãi không thấy Hồng Thúy phải tất tả đi tìm. Khi họ chạy tới cầu Long Biên thì chỉ còn chiếc xe đạp nát bét vương máu đỏ đang nằm chỏng chơ trên một nhịp cầu chưa bị sập.

Còn cụ Ái, một người đã sống gần trọn 90 năm đời người bên bờ sông Hồng, cũng có con, cháu vĩnh viễn ra đi trên cây cầu này: “Hôm đó con gái tôi đang dẫn cháu nhỏ qua cầu để mua chiếc đèn trung thu thì bom giội xuống...”. Trong ký ức cụ Ái, thịt xương con cháu mình đã lẫn cùng các nhịp cầu Long Biên dưới sông Hồng.

Kể từ ngày khốc liệt đó, 42 năm đã trôi qua. Trên cầu Long Biên, trong cảnh bình yên, nhiều người chỉ cho tôi thấy những vết lõm, nứt trên các thanh cầu, và nói đó chính là thương tích của cầu thời đạn bom. Hầu như người Hà Nội lớn tuổi nào cũng ít nhiều có kỷ niệm bi hùng về cây cầu sắt cổ kính bắc qua sông Hồng này. Thời chống Pháp, cầu Long Biên đã lặng lẽ chứng kiến bao người Việt yêu nước phải lên đoạn đầu đài, rồi sự lớn mạnh của Việt Minh cho đến ngày đoàn quân hào hùng nhịp bước trên cầu về tiếp quản thủ đô.

Rồi trong cuộc chiến chống Mỹ, cây cầu lại minh chứng cho thấy đạn bom không thể làm gục ngã ý chí con người. Với dân thường dù đi sơ tán hay bám trụ ở Hà Nội đều thắt ruột gan lo cho cầu Long Biên mỗi khi bị đánh phá. Trong tâm hồn họ, Long Biên dưới bom đạn không chỉ là cây cầu huyết mạch của Hà Nội bắc qua sông Hồng, mà còn là biểu tượng của niềm tin vào sự sinh tồn mãnh liệt và chiến thắng cuối cùng. Còn với chiến sĩ phòng không, đó là sứ mệnh thiêng liêng, họ bảo vệ được cầu Long Biên là bảo vệ một phần thủ đô Hà Nội.

Long Biên dưới bom đạn không chỉ là cây cầu huyết mạch của Hà Nội bắc qua sông Hồng, mà còn là biểu tượng của niềm tin vào sự sinh tồn mãnh liệt và chiến thắng cuối cùng. Còn với chiến sĩ phòng không, đó là sứ mệnh thiêng liêng, họ bảo vệ được cầu Long Biên là bảo vệ một phần thủ đô Hà Nội.

Ở đầu cầu phía Gia Lâm, cựu trung đội trưởng dân quân Lê Thị Hạnh ở xã Ngọc Thụy (nay là phường Ngọc Thụy, quận Long Biên) như đang sống lại một thời chiến tranh hào hùng khi kể chuyện xưa.

Bà tâm sự rằng dù máy bay Mỹ tập trung đánh phá cầu ác liệt hết trận này đến trận khác, nhưng chưa bao giờ cầu Long Biên bị sập hoàn toàn. Những cô gái son trẻ như bà thời đó cũng tình nguyện phối hợp với bộ đội phòng không bảo vệ cầu. Cô làm tải thương, cô tiếp đạn, thậm chí là xạ thủ súng cao xạ. Họ là nông dân, công nhân sản xuất nhưng khi máy bay Mỹ đến thì lao vào trận địa. Nhiều cô đã bị thương, hi sinh nhưng máu của họ chảy ra để cầu Long Biên được đứng vững.

Những trận đánh bảo vệ cầu

Ở đầu cầu Long Biên bờ nội thành, trung tá Lê Minh Bội, người từng chỉ huy một đại đội phòng không với tám khẩu pháo 100 li bảo vệ cầu Long Biên trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, nay đã 78 tuổi, nhưng ông vẫn nhớ rõ đơn vị mình được điều từ Thanh Trì về trực chiến ở cầu Long Biên.

Trận địa pháo của đại đội 1, trung đoàn 220, sư đoàn phòng không Hà Nội này được bố trí trên bãi Gia Thượng, Gia Lâm, ngay gần cầu Long Biên. Cùng với các đơn vị khác, đại đội 1 có nhiệm vụ “ôm sát” cầu Long Biên để trực tiếp bảo vệ cầu, Nhà máy điện Yên Phụ, khu trung ương... Và từ năm 1966, đơn vị này đã mấy lần bắn rơi máy bay Mỹ đánh phá cầu Long Biên và Hà Nội.

Cầu Long Biên bị tàn phá trong chiến tranh, nhưng chỉ sập một nhịp và hư hỏng vài nhịp khác - Ảnh tư liệu

“Ác liệt nhất là trận đánh ngày 11-8-1967. Chiều đó nắng quang, trận địa bố trí hình bát giác với tám khẩu pháo. Mỗi khẩu đặt cách xa nhau khoảng 45m với tám chiến sĩ trực chiến. Trung tâm chỉ huy bắn đặt ở giữa. Loại pháo này được chỉnh bắn bằng rađa. Cả trận địa cùng khai hỏa đồng loạt với tầm bắn trên 10km”. Trung tá Bội vẫn nhớ rõ chiều đó máy bay Mỹ lợi dụng dải núi khuất Tam Đảo để vào đánh phá cầu.

Trận địa pháo khai hỏa đồng loạt tạo lưới lửa bắn chặn từ xa. Trong khi đó, các trận địa súng phòng không không để máy bay bổ nhào ném bom. Nhưng máy bay Mỹ vẫn lợi dụng số nhiều và sức mạnh hỏa lực ồ ạt kéo đến, ngoài những chiếc tập trung ném bom vào cầu Long Biên, các tốp máy bay cường kích còn nhắm đánh trận địa phòng không. Lực lượng dưới đất phải dồn hỏa lực bắn chặn máy bay ném bom để bảo vệ cầu nên tạo sơ hở cho máy bay đánh trận địa...

Bom đạn rền lên. Khói lửa mù mịt bờ bãi sông Hồng và cầu Long Biên. Một tốp máy bay cường kích theo trục sông Hồng thoát khỏi lưới lửa phòng không để thả bom bi vào trận địa đại đội 1.

“Tôi đang đứng ở vị trí chỉ huy, phất cờ bắn thì bất ngờ nghe tiếng pháo của đại đội mình im bặt và khói lửa trùm lên”, trung tá Bội nhớ cảm giác lúc đó tim nghẹn lại khi nhìn thấy khẩu đội 3, khẩu đội 6 bị trúng bom bi. Một số chiến sĩ pháo thủ và dân quân bị thương nặng và hi sinh. Trong đó, cô dân quân Bích bị mảnh bom phạt gần mất đầu mà tay vẫn ôm quả đạn pháo chuẩn bị bắn. Trung đội trưởng dân quân Hạnh phải cởi chiếc áo duy nhất đang mặc để băng bó tạm cho một chiến sĩ nam bị thương nặng ở cổ.

“42 năm đã trôi qua, tôi vẫn nhớ như in từng gương mặt quyết tử của các chiến sĩ, dân quân”. Trung tá Bội tâm sự thêm sau đó trận địa tiếp tục chiến đấu kiên cường. Kết thúc trận đánh, đơn vị phối hợp cùng lực lượng phòng không thủ đô đã bắn rơi mấy chiếc máy bay Mỹ. Cầu Long Biên chìm trong bom đạn, nhưng chỉ bị sập một nhịp và hư hỏng vài nhịp khác.

Những cựu chiến binh như ông Bội, bà Hạnh không thể nhớ hết nổi bao trận đánh với máy bay Mỹ đã diễn ra trên đoạn sông Hồng này. Nhưng họ đã kiên cường chiến đấu để cầu Long Biên chưa bao giờ bị sập hoàn toàn. Nó có thể tạm loang máu và hư hỏng một vài nhịp, nhưng lại nhanh được sửa chữa để tiếp tục đứng vững.

QUỐC VIỆT

______________________

Việc nhanh chóng sửa chữa, lưu thông cây cầu huyết mạch này trong chiến tranh cũng là một cuộc chiến đấu kiên cường khác của quân dân thủ đô. Dưới bão lửa đạn bom, họ đã biến điều không thể thành có thể.

Kỳ tới: Giữ vững huyết mạch

Chủ Nhật, 13/09/2009, 00:24 (GMT+7)

Ký sự cầu Long Biên - Kỳ 3: Giữ vững huyết mạch

TT - Chậm rãi đi bộ trên những nhịp cầu Long Biên mà nhiều người đã đổ mồ hôi và xương máu để sửa chữa, khắc phục nó sau đạn bom thời chiến tranh, ông Nguyễn Cảnh Chất trầm ngâm tâm sự: “Với chúng tôi, việc đảm bảo lưu thông được cây cầu sắt duy nhất bắc qua sông Hồng cũng là một cuộc chiến căng thẳng.

Việc đi lại của nhân dân thủ đô, những đoàn quân, đoàn xe Nam tiến phụ thuộc rất lớn vào cây cầu này. Nhiều lần bị hư hỏng nặng, chúng tôi tưởng không thể nào khắc phục nổi trong điều kiện khó khăn thời chiến. Nhưng rồi tất cả vẫn vượt qua”.

>> Kỳ 1: Công trình lịch sử
>> Kỳ 2: Trong bão lửa

Tập trung sửa chữa cầu Long Biên sau khi bị trúng bom thời chiến tranh - Ảnh: tư liệu

Những gì Long Biên cần đều được bảo đảm

"Ai cũng quyết tâm bảo đảm cầu Long Biên lưu thông như là bảo vệ mạch máu của chính mình. Vì vậy, cầu Long Biên mới đứng vững được đến tận cùng cuộc chiến"

Trong khung cảnh bình yên với chiếc cầu soi bóng nước sông Hồng hôm nay, có lẽ ít người biết nó từng phải chịu đựng bao thương tích và đã được sửa chữa nhiều lần trong chiến tranh.

Giờ đã 80 tuổi, ông Chất vẫn nhớ rõ ngay khi quân Mỹ chuẩn bị ném bom miền Bắc, các phương án bảo vệ cầu Long Biên đã được đặt ra. Ngoài chiến sĩ phòng không bảo vệ cầu, lực lượng kỹ sư và công nhân cũng ngày đêm trực chiến bảo đảm cho cầu được lưu thông trong mọi tình huống.

Thời điểm đó ông Chất đang là cán bộ của Trường đại học Giao thông và chuẩn bị đi Đức để học tiếp thì được lệnh ở lại. Cấp trên nói rõ với ông: “Hãy chuẩn bị các phương án khắc phục mọi tình huống sập cầu Long Biên. Nhiệm vụ của các anh là phải bảo đảm sửa chữa cho cầu lưu thông bằng bất cứ giá nào”.

Ông Chất hiểu nhiệm vụ nặng nề: bảo đảm lưu thông cầu Long Biên cũng khó khăn không kém chiến đấu bảo vệ cầu trước máy bay Mỹ. Cầu lớn, sông quá rộng, máy bay Mỹ thường xuyên đánh phá, lại thiếu thốn phương tiện làm việc. Lúc đó họ chỉ có mỗi một thứ nhiều nhất là ý chí bảo vệ cầu.

Được giao trách nhiệm tổng công trình sư, ông Chất và lực lượng kỹ sư, công nhân sửa chữa cầu nhanh chóng lao vào nhiệm vụ trước khi máy bay Mỹ đánh phá. Việc đầu tiên là phải chuẩn bị đủ nhân sự. Những ngày cao điểm, lực lượng này đông đến cả ngàn người huy động từ Xí nghiệp cầu Thống Nhất, Nhà máy gang thép Thái Nguyên, Nhà máy xe lửa Gia Lâm trực chiến gần cầu. Sau đó là tập trung vật liệu dự phòng, và các trụ cầu tạm cũng được đóng đề phòng trụ cầu chính bị bom đánh sập.

37 năm đã trôi qua từ khi máy bay Mỹ chấm dứt đánh phá miền Bắc năm 1972, kỹ sư Ngô Thị Nguyệt từng gắn với cầu Long Biên suốt cuộc chiến vẫn nhớ mãi cảm giác xúc động của mình.

Bà kể năm 1967, bà được phân công về trực chiến sửa chữa cầu khi mới 25 tuổi, nhưng trước đó bà đã từng đi sửa chữa các cây cầu bị ném bom ở Tây Bắc. Khi được điều về Hà Nội bảo đảm lưu thông cầu Long Biên cùng đợt với ông Chất, bà đã khóc không phải vì sợ vất vả, mà ý thức sứ mệnh thiêng liêng của mình.

Từ thuở đi học ở thủ đô, bà đã ngày ngày in dấu chân mình trên cây cầu soi bóng sông Hồng này. Nhiều cô gái khác cũng trực chiến sửa chữa cầu Long Biên. Trong hoàn cảnh nhiều nam giới đã Nam tiến hoặc chiến đấu bảo vệ miền Bắc, phụ nữ tình nguyện nhận những việc nặng nhọc như kích kéo, hàn, cắt thép làm cầu. Tuy khó khăn vẫn xuất hiện khẩu hiệu “Những gì Long Biên cần đều được bảo đảm”, kể cả phụ nữ làm việc nặng của đàn ông.

Đứng vững

Bây giờ, đứng ngay trên nhịp cầu Long Biên từng được sửa chữa trong chiến tranh, bà Nguyệt bồi hồi kể lần sập cầu đầu tiên dưới đợt ném bom của máy bay Mỹ tháng 8-1967. “Trước đó, cầu cũng bị máy bay Mỹ nhắm đánh rồi, nhưng phòng không đánh trả rát quá nên nó ném bom chệch ra sông”.

Bà nhớ ngày đó mưa to, nước chảy mạnh, dân qua cầu phao không an toàn nên được đi trên cầu Long Biên. Xế chiều, các tốp máy bay Mỹ ào đến oanh tạc dữ dội trong sự chống trả quyết liệt của bộ đội phòng không. Đến đợt hai thì cầu trúng bom. Tuy không đổ hoàn toàn, nhưng mấy nhịp bị hỏng và sập kéo theo người dân còn đang mắc kẹt trên đó. Trận chiến vừa tạm dứt, lực lượng sửa chữa đã lao ra hiện trường.

Việc khắc phục cực kỳ khó khăn vì nhịp cầu bị sập ở đoạn nước sâu giữa sông. Đầu tiên, mọi người phải dồn sức dọn dẹp các nhịp cầu bị hỏng để sửa lại. Việc đơn giản nhưng rất nguy hiểm vì nhiều thanh sắt nằm lơ lửng như bộ xương trên cầu. Thợ cắt, thợ hàn phải treo mình lên phá dỡ và tai nạn đã xảy ra.

Riêng nhịp số 10, họ phải nhờ công binh nổ mìn dọn an toàn và nhanh các nhịp bị hư để kịp thời khắc phục. Rồi cầu treo được bắc tạm qua hai đầu nhịp chưa bị sập để tạm thông cầu trong khi tiến hành sửa chữa chính. Khó khăn lớn nữa là lúc đó làm việc chủ yếu ban đêm, công nhân phải tản ra khỏi cầu ban ngày. Họ ăn ngủ tạm trên bãi sông, công viên, cơ quan đã sơ tán để tránh máy bay đánh phá.

Mọi người vất vả nhưng đều nỗ lực làm việc. Những nhịp hỏng nhẹ được nhanh chóng sửa lại. Nhịp sập được làm mới hoàn toàn dù không có điều kiện phục hồi nguyên mẫu. Những thanh sắt đa năng YUKM của Liên Xô viện trợ được ráp nối làm dầm mới. Có đêm cao điểm, cả 200 thợ hàn của Nhà máy xe lửa Gia Lâm đều ra làm cầu.

Đến ngày 31-8-1967, cầu Long Biên đã được chữa lành “vết thương”. Máy bay Mỹ lại đánh phá và cầu lại bị hỏng. Nhưng những người thợ sửa cầu vẫn tiếp tục thi gan cùng bom đạn. Ông Chất xúc động nhớ lại lần cầu “bị thương” khá nặng trong đợt bom tháng chạp năm 1967: “Máy bay Mỹ bị bắn rơi khá nhiều, nhưng chúng vẫn điên cuồng đánh phá. Còn chúng tôi thì quyết tâm khắc phục, bảo đảm lưu thông cho cầu như đánh đố với không quân Mỹ xem ai nhụt chí trước”.

Đợt đó, ông Chất nhớ cầu bị hỏng và sập liền mấy nhịp 15, 16, 17... Khối lượng công việc quá lớn và phức tạp nên không thể khắc phục nhanh. Chiếc cầu phao dài 200m được nối bằng các sà lan 300 tấn tạm thay cho cầu Long Biên ở đoạn sông Thanh Trì. Xe lửa có thể chạy trên nó để qua sông. Ban ngày, sà lan được tháo kéo đi ngụy trang tránh máy bay, đêm xuống chúng mới được ráp lại làm cầu.

Ông Nguyễn Cảnh Chất trở lại cây cầu Long Biên ông đã tham gia sữa chữa thời chiến tranh - Ảnh: QUỐC VIỆT

Trong lúc đó, việc khắc phục cầu Long Biên vẫn hối hả tiến hành. Cả thợ lặn Hải Phòng cũng được huy động dọn lòng sông lấy chỗ sửa chữa. Nhịp sập quá lớn bị ngập trong cát dưới đáy sông. Thợ lặn phải xói cát, cắt từng phần nhỏ nhịp rồi nẹp phao cho nổi lên mặt nước để đưa vào bãi. Có người đã xúc động tìm thấy cả thi thể người dân dưới sông.

Kể chuyện xưa, kỹ sư Nguyệt nhớ nhiều kỷ niệm khó quên: “Khó khăn nhất là đóng cọc xuống sông làm trụ cầu mới. Việc phải làm nhanh trong điều kiện sông sâu, nước lớn, lại thiếu phương tiện. Có trụ phải đóng đến 24 - 33 cọc như vậy”.

Đến giờ, bà Nguyệt vẫn ngạc nhiên trước ý chí của những người thợ sửa cầu như mình lúc ấy. “Ai cũng quyết tâm bảo đảm cầu Long Biên lưu thông như là bảo vệ mạch máu của chính mình. Vì vậy, cầu Long Biên mới đứng vững được đến tận cùng cuộc chiến”, bà nói.

Sau ngày đất nước thống nhất, những người thợ sửa cầu Long Biên trong chiến tranh vẫn tiếp tục đổ mồ hôi và trí tuệ để sửa chữa cây cầu lịch sử. Và những đoàn tàu đầu tiên chạy dài theo đất nước hòa bình đã lăn bánh qua cây cầu này.

QUỐC VIỆT

------------------------------------------------------

Dưới chân cầu Long Biên, một cồn bãi đã nổi lên từ rất lâu trước khi cây cầu này xuất hiện. Nó không chỉ đem lại nét đẹp và sức sống cho cầu Long Biên, mà còn là nhân chứng của cây cầu này.

Kỳ tới: Bình yên dưới chân cầu

Ký sự cầu Long Biên - Kỳ 4: Ốc đảo dưới chân cầu

TT - Lần theo nhịp thang phụ giữa cầu Long Biên, tôi tìm xuống ốc đảo bình yên ngay dưới chân cầu. Các cụ già kể rằng bãi giữa này đã nổi lên từ xa xưa trước khi xây dựng cầu, nó như “con đập” tự nhiên giúp giảm bớt dòng nước chảy xiết mùa mưa lũ để bảo vệ cầu và khu dân cư.

Long Biên không chỉ soi bóng nước sông Hồng như những cây cầu khác, mà còn vắt mình trên một cồn bãi xanh tươi rộng lớn. Hơn thế kỷ qua, cầu Long Biên luôn gắn liền với ốc đảo đầy sức sống này và có những câu chuyện linh địa kỳ lạ.

Diện tích bãi hiện còn rộng hơn 61ha với trên 100 hộ dân làm nông - Ảnh: Quốc Việt

>> Kỳ 1: Công trình lịch sử
>> Kỳ 2: Trong bão lửa
>> Kỳ 3: Giữ vững huyết mạch

Địa thế linh thiêng

Ông Nguyễn Văn Thụy đã ngoài 70 tuổi vẫn nhớ gia đình mình đã ít nhất có ba đời sống trên dải đất như ốc đảo giữa sông Hồng: “Ông nội tôi sinh ra ở đây, bố tôi cất tiếng khóc chào đời ở đây và tôi cũng lẫm chẫm những bước chân đầu đời trên bãi sông này”. Trong ký ức được tổ tiên truyền nối từ bao đời, ông Thụy kể rằng đoạn sông này có địa thế phong thủy rất tốt.

Ngày xưa, những đoàn quân xâm lược từ phương bắc đã nhìn thấy điều đó để bày trận giao tranh. Rồi khi triều đình nước Nam lập làng Cơ Xá ở bờ bãi đoạn sông này cũng có sự tích linh thiêng. Người ta cho thả một quả bưởi từ đoạn sông trên. Nó trôi dạt vào đâu, địa giới làng được mở đến đó. Làng Cơ Xá bao gồm cả bãi giữa sông này ra đời từ đó.

Người Pháp có thể tuy không bị ảnh hưởng nhiều thuật phong thủy phương Đông, nhưng cũng chọn đoạn sông chảy qua cồn bãi này để xây dựng cầu Long Biên. Đó cũng là đoạn sông Hồng mà ngày xưa chiến hạm Pháp đã khai hỏa pháo tấn công thành Hà Nội. Ngay lúc việc xây cầu mới chuẩn bị, các thầy địa lý giỏi của Hà thành đã chấm “long mạch” ở đây. Họ cho rằng việc xây một cầu lớn như vậy là quá hệ trọng, đặc biệt là bắc qua sông Hồng (còn gọi là Nhị Hà) như long mạch của Hà Nội.

Còn theo ý kiến của các chuyên gia xây dựng thời nay, kỹ sư cầu đường Pháp đã chọn chính xác nơi thuận lợi nhất lúc đó để xây dựng cầu Long Biên. Vị trí sông Hồng này không chỉ rất gần khu trung tâm thành phố, mà còn có địa tầng cát sỏi cứng bên dưới để làm móng cầu kiên cố. Đặc biệt, bãi giữa dưới chân cầu cũng là điều kiện thuận lợi hiếm hoi cho công trình xây dựng qua sông Hồng quá rộng lớn, khó khăn.

Mùa khô, nó vừa là cồn bãi tập kết phương tiện xây dựng, vừa là nơi dễ dàng nhất để đào một số trụ cầu thay chỗ đáy sông sâu. Nhờ một phần điều kiện tự nhiên thuận lợi đó mà cầu Long Biên sớm hoàn thành chỉ trong bốn năm và không gặp mấy trục trặc về kỹ thuật.

Rồi khi cây cầu hoàn thành và soi bóng nước sông Hồng, cồn bãi này lại tiếp tục gắn bó như hình bóng với nó. Trong suốt cuộc chiến tranh chống máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc, bãi giữa này là một trong những trận địa quan trọng bảo vệ cầu. Quân đội đã đem cả tên lửa, trọng pháo phòng không bố trí trên bãi để đối đầu với máy bay Mỹ đánh cầu. Nếu không có cồn bãi dưới sông, chắc chắn việc phòng thủ cầu Long Biên sẽ còn khó khăn, đổ xương máu nhiều hơn.

Người bạn tri kỷ

Ông Nguyễn Văn Thạch, một nông dân 70 năm gắn bó với cồn bãi này, tâm sự: “Từ xa xưa, trên bãi đã có một xóm làng trù phú khuất dưới bóng cầu và một con đường rộng mấy mét để người dân đi lại. Rồi sau khi cầu được xây dựng thêm phần đường cho khách bộ hành và ôtô, người ta đã làm cầu thang ở giữa cầu để dẫn xuống bãi. Từ đó, dân dưới bãi và dân trên bờ có thể qua lại dễ dàng bằng chính cây cầu Long Biên này. Họ không còn phải đi thuyền vất vả, nguy hiểm như xưa nữa”.

Ông Thụy nhớ hồi sau năm 1975, một thời kỳ người ta tính xóa sổ cái bãi này để dòng lũ thoát nhanh. Tất cả dân xóm bãi chuyển lên bờ. Nhà cửa dọn sạch. Một số cừ kè quanh bãi phải nhổ đi để nước lũ cuốn lở dần bãi. Tuy nhiên, thiên nhiên không như tính toán con người. Nước lũ chỉ làm lở được một phần bãi, rồi chuyển dòng chảy xói thẳng vào bờ đe dọa khu dân cư lẫn cả cầu Long Biên. Thế rồi cồn bãi dưới chân cầu lại được bảo vệ như hàng trăm năm trước nó đã dần hình thành và tồn tại tự nhiên trên sông Hồng.

Dẫn tôi dạo bước ngắm cầu Long Biên đang hắt bóng dài dưới ánh hoàng hôn trên bãi, ông Thạch kể rằng từ lâu trong tâm khảm mình cùng nhiều người dân bãi này đã coi cầu Long Biên là bạn tri kỷ tri âm. Cũng như ông bạn già Thụy, mấy đời tổ tiên ông Thạch đã ở bãi. Mùa nắng khô bãi nổi hoàn toàn trên mặt nước. Nhưng những tháng mùa mưa đôi khi nó cũng bị nhấn chìm do lũ lớn từ thượng nguồn đổ về. Cư dân trên bãi thường phải đắp đất đóng cừ tre làm một gian nhà gò cao hơn 2-3m so với mặt bãi để sẵn sàng chạy lũ.

Bao quanh xóm bãi, người ta còn trồng rất nhiều tre cản bớt sức nước, bảo vệ nhà cửa. Tuy nhiên, lũ lớn vẫn thường nhấn chìm bãi. “Những lúc đó chính cầu Long Biên đã che chở chúng tôi”, ông Thạch tâm sự thêm những đêm mưa bão, lũ sông Hồng lên nhanh đến bất ngờ và cầu Long Biên là nơi chạy tránh lũ nhanh nhất, an toàn nhất với cư dân xóm bãi.

Đến giờ, lớp người lớn tuổi như ông Thạch, ông Thụy còn lưu giữ biết bao kỷ niệm khó quên về cây cầu và cồn bãi này. Cư dân bãi rất thạo nghề nông để sinh sống. Xa xưa, tổ tiên họ trồng dâu nuôi tằm. Đất và nước sông Hồng rất hợp với cây dâu. Về sau, bãi dâu hẹp dần để thay bằng các cây lương thực như ngô, đậu, khoai trong thời đói kém. Và cây gì cũng xanh tốt trên bãi. Mỗi lần lũ tràn qua bãi, dân lao đao một chút nhưng phù sa lại bồi đắp cho bãi màu mỡ thêm. Lúc ấy cá tôm sông Hồng nhiều vô kể. Nước cũng chưa ô nhiễm để người dân có thể sử dụng trực tiếp.

Men theo những luống khoai, bãi ngô xanh ngắt, tôi lang thang trên bãi dưới chân cầu. Một ốc đảo bình yên hiếm hoi nằm giữa thủ đô đông đúc. Những đôi trai gái dạo chơi dưới bãi. Mấy cậu nhóc chạy loăng quăng thả diều. Các cụ già đi câu cá sông. Và cả những thanh niên lánh góc bãi vắng vẻ để “tắm tiên”. Cái thú bơi sông hoang dã không mặc quần áo chỉ duy nhất có ở nơi này...

Bây giờ, những cựu dân sinh ra trên bãi như ông Thạch, ông Thụy vẫn còn. Nhưng nhiều dân tỉnh cũng mới xuống thuê đất làm nông. Trải cùng thời gian và con nước lở bồi, diện tích bãi hiện còn rộng hơn 61 ha với trên 100 hộ dân đang làm nông. Một số người dựng nhà sống luôn ở bãi. Những người khác thì sống trên bờ, ban ngày xuống bãi cày cuốc, tối lại về nhà.

Trong những sản vật mà dân bãi thu hoạch được có sự giúp sức lặng lẽ của cầu Long Biên. Qua bao mùa nước sông Hồng, cây cầu đã làm con đường thuận tiện nhất xuống bãi lên bờ. Nó lặng lẽ giúp những hạt giống được đem gieo trồng xanh tốt trên cồn bãi. Rồi đến một ngày người ta lại men theo chiếc cầu sắt đó đem rổ khoai, thúng ngô, mớ rau về nhà.

QUỐC VIỆT

_________________________

Nhiều năm qua cầu Long Biên đã mang trên mình những chợ quê, chợ đêm dân dã với sức sống và nét đẹp đặc trưng của thủ đô Hà Nội. Nhiều ý tưởng muốn phục hồi cầu Long Biên để biến nó thành một bảo tàng độc đáo...

Kỳ tới: Sức sống qua ba thế kỷ



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét