Thứ Ba, 8 tháng 9, 2009

Hà Nội với những con phố mang tên “Hàng”

Hà Nội với những con phố mang tên “Hàng”

Một trong những đặc điểm văn hóa của Hà Nội là có rất nhiều phố mang tên “Hàng”. Nhiều thành phố, thị xã của ta cũng có nhiều phố mang tên “hàng”, nhưng nói đến “hàng” thì người ta chỉ nghĩ đến Hà Nội thôi.

Bài vè cổ kể ra đúng 36 phố, trong đó con số mang tên “hàng” chiếm tới ba phần. Cũng cần nói thêm rằng ta cứ hay nói “Hà Nội 36 phố ph­ường”, thư tịch cũ cũng viết rằng một thời Hà Nội có 36 phường phố, thành ra nhiều người cứ tư­ởng Hà Nội cổ chỉ có 36 phố thật. Nhưng số 36 chính là con số thiêng trong quan niệm ph­ương Đông (3+ 6 = 9 nước). Do đó nói “Hà Nội 36 phố phường” thì nên hiểu rằng Hà Nội có nhiều phố, “phố dăng mắc cửi bàn cờ...”, tấp nập chợ búa! Bằng chứng về việc Hà Nội cổ nhiều phố hơn 36 là... chỉ các phố tên "hàng", ngư­ời ta đã có thể kể ra đến 70 cái tên!

Hơn 70 cái “hàng” tập trung trong khoảng một cây số vuông, nơi ngày nay ta gọi là phố cổ. Hơn 70 nghề thủ công hoặc mặt hàng phục vụ cho đời sống kinh thành. Đó là sự tập trung cao độ khiến kinh thành, thành cái "chợ" trong mắt dân gian. Mỗi phố là một cái chợ, cả Thăng Long là một cái chợ khổng lồ. Cái từ Kẻ Chợ lâu dần biến thành tên riêng. Không rõ cách gọi này có từ bao giờ, chỉ biết, trong các ghi chép của các giáo sĩ ph­ương tây từ thế kỷ 17-18 đã có địa danh Kẻ Chợ.

Ha Noi voi nhung con pho mang ten Hang

Phố Hàng Buồm xưa

Ở Kẻ Chợ, người ta không buôn bán tùy tiện mà sắp xếp, mở mang theo từng phố, từng phường. Mỗi phố có một mặt hàng riêng, thế mới gọi là “hàng”! Sách Đại Nam nhất thống chí cho ta biết ngày x­a ấy, sự chuyên doanh đã khá cao: Phố Hàng Mã bán hàng mã, phố Hàng Giày bán các loại giày dép, phố Hàng Bè bán các thùng bằng tre để gánh nư­ớc...Nhìn chung tên gì bán nấy, Hàng Chỉ thì se chỉ, bán chỉ; Hàng Mắm thì bán mắm; Hàng Cau thì có nhiều nhà buôn bán cau...“Buôn có bạn, bán có phường”. Đó là vì người các làng khắp bốn ph­ơng tụ đến, mỗi làng có một nghề riêng, đem làm ăn kiếm sống, lâu dần thành thói quen trong kinh doanh, vừa thuận cho người bán lại tiện cho người mua.

Lịch sử hình thành trung tâm th­ương mại Kẻ Chợ cũng dài ngang với lịch sử kinh thành. Tuy là một đất nước nông nghiệp, kinh tế tự cung tự cấp, nhưng sự buôn bán ở kinh thành hẳn đã phồn thịnh hơn những vùng khác ngay từ khi Lý Thái Tổ xuống Chiếu dời đô.

Sách “Đại Việt sử ký” cho hay, Lý Thái Tổ dời đô rồi cho xây đền đài, cung điện, xây đắp thành, bốn mặt thành mở bốn cửa... Năm năm sau...”Ban chiếu cho Dực Thánh v­ương và Vũ Đức Vư­ơng đi đánh các châu Đô Kim, Vị Long... bắt được thủ lĩnh là Hà Trác Tuấn đem về kinh chém bêu đầu ở chợ cửa Đông”. Đoạn sử này cho ta thấy 10 thế kỷ trước đã có chợ, mà lại là chợ ngay ở ngoài cửa thành. Và cái chợ này đương nhiên phải tấp nập người mua kẻ bán, cả quan lẫn dân, như­ thế mới dùng làm nơi bêu đầu giặc loạn để thị uy.

Cái cách mở chợ ở tr­ước các công sở, nơi đông người qua lại, kể cả trên đ­ường cái quan, trên các tuyến phố, xem ra đã có truyền thống từ thời đó. Cửa Đông là nơi buôn bán sầm uất, bởi có vị trí thuận lợi dọc bờ sông. Ngày x­a đường bộ còn nhiều khó khăn thì đường thủy là tuyến chính. Nơi đây có bến Đông Bộ Đầu nổi tiếng trong lịch sử. Nhờ có công cuộc trị thủy mà nhiều hồ ao, bãi sông trở thành phố xá. Trong “Vũ trung tùy bút” Phạm Đình Hổ viết về cái sự phát triển của kinh thành: “ ...Ven sông bờ phía nam dần dần nổi lên bãi phù sa rộng, người đến tụ họp lập làng xóm đông đúc. Vì thế các phường Thái Cực, Đông Hà, Đông Các...nhà ở xen liền hai dãy phố xen liền cho đến Hàng Mắm, Hàng Bè...đều thành ra phố phường buôn bán dô hội cả...”.

Suốt nhiều thế kỷ, phố xá bán buôn của Hà Nội không ngừng phát triển ngày càng nhộn nhịp hơn. Song phải sang các thế kỷ 18-19, đặc biệt là giai đoạn đầu thế kỷ 20, mới có sự bùng phát và để lại cho ta một Kẻ Chợ dáng dấp còn lư­u lại đến nay. Năm 1889 người ta cho lấp khúc sông Tô Lịch từ cửa sông Nhị đến thành cổ. Hai cái chợ thường họp bên đền Bạch Mã và Cầu Đông bị dẹp bỏ, chuyển về một cái chợ nhỏ thuộc phường Đồng Xuân. Thế là chợ Đồng Xuân ra đời, trở thành trung tâm thư­ơng mại lớn nhất Hà Nội, và chắc chắn là lớn nhất đất nước thời đó, bán buôn, bán lẻ không thiếu một thức gì.

Mạn Hàng Đồng, Hàng Mắm, Hàng Vải, Hàng L­ược, Hàng Bông, Hàng Bè...vốn nhà tranh lụp xụp thò ra thụt vào nhếch nhác, sau các vụ cháy khủng khiếp các năm 1885,1886,1887, 1888 thiêu rụi cả trăm nóc nhà, cả dinh Tổng đốc, đã được xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ, bằng những vật liệu bền vững, khó cháy, đường phố, hè phố được chỉnh trang thuận tiện đi lại, buôn bán. Rồi khu Hàng Khay-Tràng Tiền- Bờ Hồ cũng được mở ra, tạo nên một trung tâm thành phố sát phía nam khu buôn bán “36 phố phường”

HangDao.gif

Phố Hàng Đào xưa

Từ xa x­a, các phố “hàng” đã là niềm tự hào của người Hà Nội và người cả nước. Vì phố xá buôn bán sầm uất nên hẳn là khang trang đẹp đẽ hơn các khu vực khác. Thế nên các vua Lê, chúa Trịnh và cả vua Quang Trung cũng chọn các tuyến phố Hàng Gà, Hàng Điếu, Hàng Da, Hàng Buồm, Hàng Aó (Hàng Ngang), Hàng Đào, Hàng Túi (Hàng Gai), Hàng Gư­ơng (Hàng Bài), Hàng Bông...để r­ước nhiều đoàn sứ của nhà Thanh vào cung vua.

Người Hà Nội hiện đại có niềm tự hào tinh tế mà sâu sắc về các “hàng” của mình. Nói Hà Nội gốc thì tự hào là trai Hàng Bạc. Nói gái Hàng Đào có nghĩa là công nhận vẻ đẹp kiều diễm, thanh lịch. Ăn ngon thì phải ăn ở cao lâu Hàng Buồm. Mua sắm các vật dụng làm đẹp thì phải ghé Hàng Đào, Hàng Ngang. Hàng hóa ở đây giá hơi đắt hơn, nh­ưng đảm bảo là hàng xịn, sang trọng.

Ngày nay Hà Nội mở mang ra đã gấp mấy chục lần, sự kinh doanh buôn bán cũng mở mang ra theo, tận Thanh Xuân, Cầu Diễn, Đông Anh...với những siêu thị hiện đại cao ngất (Mới đây lại ôm cả Hà Đông, Sơn Tây... trở thành thủ đô có hạng của thế giới). Khu phố cổ chập hẹp tuy vẫn là nơi buôn bán tấp nập, song không còn giữ vai trò như­ x­ưa nữa. Nhưng vai trò văn hóa của nó thì lại tăng lên. Đi trong các khu phố cổ bất cứ nơi nào ta cũng có thể chạm vào lịch sử: Đây là ngôi nhà của cụ cử Lư­ơng Văn Can thời Đông Kinh nghiã thục; đây là Hội quản Hoa kiều gợi nhớ cái thời những th­ương nhân người Hoa làm trung gian điều đình giữa người Pháp và triều đình phong kiến Việt Nam; kia là dinh cơ của nhà tư­ sản dân tộc Bạch Thái B­ưởi lừng danh một thời; đây là cửa ô Quan Ch­ưởng, cửa ô cuối cùng còn sót lại đến ngày nay; đây là nơi Hồ Chủ tịch ngồi thảo Tuyên ngôn Độc lập; đây là nơi các chiến sĩ Cảm tử quân chiến đấu với tinh thần quyết tử bảo vệ Thủ Đô trong những ngày đầu kháng chiến...Mỗi góc phố một gợi nhớ, mỗi b­ước đi một bâng khuâng. Dọc Đồng Xuân, Hàng Giấy, Hàng Ngang, Hàng Đào, Bờ Hồ còn nghe đâu đây tiếng leng keng tàu điện thuở nào...Cho nên có câu hát ngỡ là rất khô khan nhưng lại say lòng bao người Hà Nội: “Xanh t­ươi bát ngát Tây Hồ, Hàng Đư­ờng ríu rít Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Gai, ôi tha thiết lòng ta biết bao nhiêu...”.

Ý thức được vai trò to lớn của các phố “hàng”, người ta đã đ­a ra nhiều dự án văn hóa. Nào khôi phục lại đường xe điện, tôn tạo lại một số ngôi nhà cổ, mở các phố ẩm thực, quy định các phố đi bộ tránh sự ồn ào đã quá sức chịu đựng do các loại xe máy... Những dự án đó có cái đang tiến hành, có cái hẳn còn lâu mới được chấp nhận, bởi sức ép nặng nề của đời sồng thường nhật của người dân sống trong khu phố cổ. Nhưng dẫu thế nào, một trong những công việc khẩn thiết của người Hà Nội là giữ lấy những nét văn hóa đặc sắc của những con phố mang tên “hàng“ của mình.

- Hà Nội cổ (36pho).

2Hà Nội Ngàn xưa văn hiến, nay đã thay da đổi thịt. Những toà nhà hiện đại cao chót vót đã thay thế cho những mái ngói thâm nâu…Chúng ta ai cũng đều nhận thấy 1 Hà Nội hoàn toàn đổi mới. Song cũng qua con mắt của mỗi chúng ta, đâu đó vẫn ẩn hiện 1 Hà Nội cổ kính với nét văn hoá truyền thống…như những quán nước chè vỉa hè hay những gánh hàng rong, những cụ ông cụ bà sáng sớm đi mua tờ báo Hà Nội mới ngồi ghế đá bờ hồ đọc những dòng tin trong ngày…


0

1

2

3

4

6

7

8

9

10

11

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét